Nghị luận văn chương (1972)
Tự học Hán văn (1973, tái bản 1995)
Chân dung Hồ Biểu Chánh (1974, tái bản 1998)
Gia Định qua thơ văn xưa (1987)
Những vấn đề cơ bản của chữ Nôm (1987)
Từ điển Hán - Việt (1991)
Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập (1997)
Hương Trời Xa Bay (Thơ, 1998)*
Nguyễn Trãi toàn tập tân biên (Soạn chung, 1999 và 2000)
Cõi Trăm Năm (Thơ, 2002)**
Ba mươi năm cầm bút (2004)
Sơ lược và ảnh hưởng của Chư tổ Thiền Thái Tông (2005)
Trăm Năm Là Cuộc Lãng Du (Thơ, 2005)***
*Biết đời như mây bay
Sao mãi nhặt cho đầy
Ra đời hai tay trắng,
Lìa đời trắng hai taỵ
**Mây bay nước chảy hững hờ,
Đá mòn rêu bám bên bờ thời gian.
Trăm năm là cõi hợp tan,
Chuyện đời dâu biển phiếm bàn mà chơi.
***Đời muôn màu muôn vẻ,
Nhiều điều chưa nói ra
Ai người sau tri kỷ,
Xin nói tiếp thay ta.
Tài liệu trên đây do Thầy Nguyễn Văn Xiêm, cựu GS Anh Văn QGNT và ĐHVK Saigon, cung cấp.
Hồi hương ngẫu thư
Hạ Tri Chương
Thiếu tiểu ly gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cảI, mấn mao thôi.
Nhi đồng tương kiến bất tương thức,
Tiếu vấn: “Khách tùng hà xứ lai ?”
Nguyễn Khuê dịch:
Ngẫu nhiên viết khi về làng
Thuở nhỏ ra đi, trở lại già,
Giọng quê chẳng đổi, tóc sương pha.
Trẻ con trông thấy không quen biết,
Cười hỏi: “Khách người ở chốn xa ?”
Lương Châu từ
Vương Hàn
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,
Dục ẩm, tỳ bà mã thượng thôi.
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi ?
Nguyễn Khuê dịch
Bài hát Lương Châu
Rượu bồ đào, chén dạ quang,
Chưa vơi, trên ngựa tiếng đàn giục đi.
Say nằm bãi cát cười chi,
Xưa nay chinh chiến mấy khi trở về.
Dạ tứ
Lý Bạch
Sáng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Nguyễn Khuê dịch:
Tưởng nghĩ trong đêm
Ánh trăng chiếu trước giường,
Ngỡ mặt đất mờ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
(Ba bài trên trích từ Hán Văn Tân Khoá Bản của Nguyễn Khuê)